Thứ Năm, 22 tháng 2, 2018

Thần Khúc - Địa Ngục - Khúc 15


KHÚC XV

Tầng Địa ngục thứ bảy – Tiếp vòng ngục thứ ba – Bờrunéttô Latinô.

Và chúng tôi đi trên bờ đá ấy
Có hơi nước từ dưới suối bốc lên
Bảo vệ bờ suối khỏi làn lửa cháy.

4   Giống như người Phiamminghi đắp đê
Giữa Guýtxăngtê và Brútgia phòng hộ
Để ngăn thuỷ triều của biển cả kia.

7   Như dân Pađôan đã từng che chắn
Thành phố, pháo đài dọc sông Bờrenta
Khi chưa ập vào Carentana cơn nóng.

10  Cũng theo cách ấy, bờ suối ở đây
Dù Thợ không xây quá cao và rộng
Không biết được rằng Thợ ấy là ai.

13  Khi chúng tôi đã xa khu rừng rậm
Đến nỗi không hề nhìn thấy khu rừng
Thì con mắt vẫn ngoái nhìn phí uổng.

16  Và chúng tôi gặp một toán âm hồn
Một toán âm hồn dọc theo bờ suối
Tất cả bọn họ đều ngước mắt nhìn.

19  Như khi hai người dưới trăng gặp gỡ
Họ nheo mắt, chằm chặp nhìn chúng tôi
Như bác thợ may xâu kim chăm chú.

22  Một người có vẻ quen biết nhìn tôi
Và sau đó nhận ra tôi, thích thú
Nắm vạt áo tôi và kêu: “Ôi trời!”

25  Sau khi bàn tay người này buông xuống
Tôi nhìn chằm chằm bộ mặt cháy đen
Gương mặt đen nhưng rõ ràng, sống động.

28  Trí nhớ của tôi đã kịp nhận ra
Và tôi giơ tay về khuôn mặt đó
“Ngài đấy ư? Ngài Bờrunéttô?”

31  “Con trai của ta, chớ phiền – ông đáp –
Latinô quay lại chút với con
Rồi ta sẽ cùng đoàn này đi tiếp”.

34  Tôi trả lời: “Tôi rất lấy làm vui
Nếu Ngài muốn, tôi sẽ ngồi xuống cạnh
Khi người hướng dẫn đồng ý với tôi”.

37  “Trong đoàn này nếu kẻ nào dừng lại
Dù một giây, thì sau đó trăm năm
Cực hình lửa thiêu là không tránh khỏi.

40  Con cứ đi tiếp và bên cạnh ta
Rồi ta sẽ nhập vào đoàn trở lại
Lầm lỗi muôn năm cùng họ khóc về”.

43  Tôi không dám rẽ qua con đường khác
Để đi cạnh ông và hơi cúi đầu
Như đi bên một con người đáng phục.

46  Ông bảo tôi: “Chẳng biết con nhờ ai
Mà tới được đây trước ngày cuối tận
Vị dẫn đường cho con đó là ai?”

49  “Trên trần thế, trong cuộc sống thanh bình
Con bị lạc đường ở trong thung lũng
Trước khi chín muồi năm tháng của con.

52  Ngày hôm qua, khi quay lưng buổi sáng
Thì con gặp nhau với người ở đây
Đường con về nhà người này sẽ dẫn”.

55  “Cứ đi theo sao chiếu mệnh của con
Rồi bến bờ vinh quanh con sẽ đến
Vì ta tin tưởng cuộc đời huy hoàng.

58  Và giá như ta đã không chết sớm
Để thấy trời đã phù hộ cho con
Thì mọi việc ta giúp con nhiều lắm.

61  Nhưng cái dân ác độc, bội bạc này
Xưa kia từ Phiêxôlê tràn xuống
Và núi rừng vẫn chiếm giữ đến nay.

64  Họ là kẻ thù, vì con xử tốt
Vì giữa thanh lương trà chát lẽ nào
Kết trái đơm hoa nổi cây sung ngọt.

67  Một nhân vật xưa gọi họ là mù
Là keo kiệt, kiêu căng và đố kỵ
Những tật xấu này con tránh bị dơ.

70  Số mệnh còn dành cho con vinh dự
Phe này, phe kia đều muốn có con
Nhưng cái mỏ còn quá xa ngọn cỏ.

73  Cứ mặc bọn súc sinh Phiêxôlê
Cấu xé nhau mà cây không đụng đến
Nếu trong chuồng phân của chúng còn cây.

76  Hạt giống thiêng ở đó rồi sống lại
Sống lại ngay trong cái ổ gian manh
Khi những người La Mã còn trụ lại”.

79  “Giá lời cầu khẩn của tôi đã thành
Thì cuộc đời của Ngài còn chưa hết
Và Ngài hãy còn sống ở trần gian.

82  Khắc trong tâm khảm và tôi xúc động
Hình ảnh của người cha chú thân thương
Đã dạy dỗ tôi, khi Ngài còn sống.

85  Như người sắp đi vào cõi vĩnh hằng
Tôi biết nghĩa vụ trong đời ngắn ngủi
Đánh dấu ngôn từ với cõi trần gian.

88  Lời Ngài ghi nhớ và tôi chờ gặp
Tôi sẽ đem chất chính một cô nương
Nàng biết rõ, nếu như tôi được gặp.

91  Tuy nhiên tôi xin bày tỏ với Ngài
Để cho lương tâm hoàn toàn thanh thản
Tôi bằng lòng với số phận của tôi.

94  Những tiên đoán tôi không còn lạ lẫm
Cứ để Thần số mệnh vặn bánh xe
Tuỳ thích, như người nông dân với xẻng”.

97  Khi đó Thầy tôi vặn người ngó qua
Bờ vai phải rồi Thầy tôi cất tiếng
“Ai chăm chú nghe thì sẽ hiểu ra”.

100 Tuy thế, Ngài Bờrunéttô không im lặng
Tôi hỏi ông trong số những bạn đường
Ở chốn này ai là người quan trọng.

103 “Cũng tốt, nếu biết vài người, tuy vậy
Với số khác thì im lặng là hơn
Thời giờ quá ít để kể nhiều tên tuổi.

106 Họ đều tăng lữ, và nên biết rằng
Họ nổi tiếng là những nhà bác học
Vì một tội danh ô uế trên trần.

109 Pờrítxian trong đoàn khốn khổ
Cùng Phờrăngsétxcô đ Acorờxô
Nếu con muốn biết loài sâu mọt đó.

112 Có cả vị “tôi tớ của bầy tôi”
Từ Ácnô đến Báckilionê được chuyển
Tại đây ông ta sinh lực hết rồi.

115 Ta muốn nữa, nhưng không thể đi tiếp
Không thể nói hơn vì thấy đằng xa
Một làn khói mới bốc lên mù mịt.

118 Ta không muốn bị lạc vào trong đoàn
Âm hồn mới, ta gửi con “Kho báu”
Ta còn sống đó, và chẳng gì hơn”.

121 Rồi ông chạy đi và tôi thấy giống
Như chạy thi trên đồng Vêrôna
Hướng về tấm vải xanh, và tưởng tượng

124 Rằng mình thắng cuộc chứ không phải thua.

KHÚC XV

4-9. Người Phiamminghi đắp đê - Dante so sánh bờ sông ở Địa ngục với bờ đê biển do người Fiamminghi đắp giữa Guizzante và Bruggia (Wissand và Bruges, Pháp), và đập nước do người Padoan (Padova) đắp trên sông Brenta, Ý.
9. Khi chưa ập vào Carentana cơn nóng - tc khi tuyết trên núi Carentana chưa tan, khi mùa xuân chưa đến.
30. Ngài Bờrunéttô - Brunetto Latino (1220-1295), nhà hoạt động chính trị, nhà thơ, nhà bác học, thành viên của phe Guelfi. Dante coi Brunetto như người thầy của mình. Có người giải thích rằng ông bị Dante đày xuống Địa ngục vì tác phẩm “Sách về Kho báu” (Livres dou Tresor) của ông viết bằng tiếng Pháp mà không phải viết bằng tiếng Toscana, do đó đã phạm tội với Chúa. Tuy vậy cũng có những ý kiến cho rằng ông bị mắc tội kê gian (sodomy), tc tội quan hệ tình dục phi t nhiên (X, TT., XXVI, 40-90), mà thời đó Firenze ai cũng biết (Wikipedia - bản tiếng Anh).
55. Cứ đi theo sao chiếu mệnh của con - Brunetto và Dante chia sẻ lòng tin thời trung cổ rằng những ngôi sao có ảnh hưởng đến số phận, tính cách của con người cũng như sự vật.
61. Cái dân ác độc, bội bạc này - tức cư dân thành phố Fiernze. Theo truyền thuyết thì cư dân Firenze gồm người Fiesole và người La Mã di cư. Theo Dante đây là một nguyên nhân gây sự chia rẽ.
65-66. Thanh lương trà và sung - hai loại cây này trong nguyên bản  lazzi sorbi (crabbed sorbs): thanh lương trà chát, dolce fico (sweet fig): sung ngọt.
71. Phe này, phe kia - tức phe Đen và phe Trắng.
73. Bọn súc sinh Phiêxôlê - tức cư dân Firenze, đa số là con cháu người Fiesole (xem câu 61).
89. Một cô nương - ngầm chỉ Beatrice.
109. Pờrítxian trong đoàn khốn khổ - Priscian, một nhà ngữ pháp Latinh nổi tiếng thế kỷ VI.
110. Francesco d’Accorso (1225 - 1293) - một luật sư nổi tiếng, thành viên phe Ghibellini.
112. Có cả vị “tôi tớ của bầy tôi” - một cách nói mỉa mai, đây là Andrea di Mozzi, Giám mục Firenze từ 1287 đến 1295, bị chuyển đến Vicenza và rồi chết ở đó.
113. Arno, Bacchiglione - tên hai con sông chỉ hai địa phương Firenze, Vicenza.
119. Cuốn Kho báu - tức cuốn “Li livres dou Tresor”, tác phẩm chính của Brunetto viết bằng tiếng Pháp trong thời gian ông sống lưu vong ở Pháp.
122. Như chạy thi trên đồng Vêrôna - ở Verona ngày chủ nhật đầu tiên của tuần chay trong năm người ta tổ chức cuộc chạy thi trên cánh đồng, những người chạy thi đều không mặc quần áo. Người thắng cuộc được phần thưởng là một tấm vải xanh, còn người về đích sau cùng được một con gà trống và phải đem con gà trống này đi vào phố. Sự so sánh ở đây có ý rằng Brunetto, cũng như tất cả tội phạm ở Địa ngục đều không mặc quần áo và cần phải chạy nhanh để “nhập vào đoàn” (câu 41).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét